Danh từ Hát bội và
nghệ thuật Tuồng có từ thời nhà Trần nước ta (1226-1399). Khi quân Nguyên Mông
sang xâm lược với ba trận đánh khốc liệt, Hưng Ðạo vương Trần Quốc Tuấn bắt
được ông Lý Nguyên Cát người Trung hoa, ông này có tài về hát tuồng diễn kịch,
giao cho tướng Trần Nhật Duật tổ chức các đội hát tuồng để ủy lạo, giúp vui
cho tướng sĩ. Danh từ Hát bội có từ đó, vì cách tổ chức trình diễn theo lối
bát điệu (tám mặt), hình thức tám cái sân khấu đấu lưng nhau, quay mặt ra tám
hướng theo hình bát quái: Tây Bắc, chánh Bắc, Ðông bắc, chánh Ðông, Ðông Nam,
chánh Nam, Tây Nam, chánh Tây. (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Ðoài).
Một đội tuồng gồm tám đoàn nhỏ, rất đông đào kép, nghệ sĩ. Tám sân khấu đều
hát chung một tuồng, cùng một lúc. Hướng Tây Bắc dành cho vua, gia đình của
vua và các quan đại thần thưởng lãm vì hướng này thuộc Càn tượng trưng cho
Trời (Thiên tử: vua là con của Trời), các cửa sân khấu khác dành cho các hạng
tùy theo thứ bậc, phẩm hàm, của các quan trong triều kể cả gia đình thứ dân,
do vậy người nào cũng được xem ở bất cứ hướng nào, nên người ta gọi là hát
bội. Bội là gấp lên, nhân lên, như một tấm gương phản chiếu hình ảnh khắp mọi
nơi. Ví dụ: hát tuồng Cổ thành (Quan Công phò nhị tẩu) thì khi đến lớp tuồng
Trương Liên lên giáo đầu (khổ đầu) thì cả tám sân khấu đều có nhân vật Trương
Liêu cùng vẽ đúng một khuôn mặt, quần áo, mũ hia đều giống nhau.
Mãi về sau này, vì hoàn cảnh xã hội,
vì kinh tế, người ta giản lược đi, ở triều đình chỉ còn hát tứ diện (4 mặt sân
khấu) và trong dân gian, các gia đình có thế lực hay cự phú, người ta tổ chức
hát lưỡng diện (hai mặt sân khấu) mới đủ khả năng kêu gọi đào kép qui tụ và
tiền bạc để nuôi ăn cho nghệ sĩ (con hát). Ví dụ: Năm 1930, ông chánh tổng Ky
(cha của ông Nguyễn An Thạch, bà con của anh Nguyễn An Phong) tổ chức hát bội
lưỡng diện ở thôn Càn rang xã Cát thắng, Phù cát. Năm 1932, cụ tuần Bửu Xuyên
(tức cụ Ðào Phan Duân ở thôn Biểu chánh, xã Phước hưng, Tuy phước) cũng tổ
chức hát bội có hai sân khấu.
Việc tranh cãi về từ "Hát Bội" và "Hát Bộ" đã xảy
ra nhiều lần, nhất là trước 1975. Có nhiều người không rõ nguyên do và lý luận
theo mỗi cách khác nhau đã biện hộ cho ý kiến của mình. Người chấp nhận chữ
BỘI thì cho rằng vì các vở tuồng hát bội chỉ lấy nét chính của một tuồng tích
mà dựng lớp. Một câu chuyện dài như Ngũ Hổ Bình Tây, Phản Ðường, mà chỉ lấy
khoảng 10 lớp diễn là đủ cả câu chuyện nên gọi là xếp lại, gấp lại, nhân lên
mà gọi là Bội. Có người còn cho rằng chữ Bội là bội bạc, các đào kép hát
thường lãng mạn, có cuộc sống thiếu đạo đức hay bội phản về tình duyên, nên
gọi là HÁT BỘI. Người cho chữ BỘ là đúng thì quan niệm rằng hát bộ là phải có
bộ tịch, múa may, chỉ trỏ cho đúng với ý nghĩa của câu tuồng nên gọi là HÁT
BỘ, hoặc cho rằng khi cụ Ðào Tấn còn làm quan, được vua cho lập bộ Ðình để
trùng hưng lại môn hát bộ mà cho là Hát Bộ chứ không phải Bội. Cả hai trường
hợp lý luận như vậy thì ta thấy trong nghệ thuật cải lương cũng có. Tuồng cải
lương cũng diễn tả những câu chuyện Tàu, cũng lấy lớp ngắn lại và diễn xuất
điệu bộ rất công phu, nhất là cải lương Hồ quảng, sao người ta không gọi là
Hát Bội hay Hát Bộ?
Lí do hát bội thịnh hành,
phổ biến rộng rãi ở miền Trung và nhất là Bình định đó là do ông Ðào Duy Từ được gọi
là ông tổ hát bội đầu tiên của Bình định. Ai cũng biết ông Ðào Duy Từ là một
người có tài quân sự điều binh khiển tướng như Khổng Minh Gia Cát Lượng, ông
đã tự ví mình như Gia Cát Võ Hầu nên sáng tác tập thơ "Ngọa Long Cương vãn".
Ông là người tài kiêm văn võ, rể của tể tướng Trần Ðức Hoà, cánh tay mặt của
Chúa Hiền ở Ðàng Trong, Ông được phong chức Táng tương Quân vụ, người dân
thường gọi ông là "Nội Táng hầu", có câu ca dao:
Thương em, anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang
Phá Tam giang ngày nay đã cạn
Truông nhà Hồ Nội táng giới nghiêm...
Ông đã có công đắp lũy gọi là Lũy
Thầy (chữ thầy là chỉ ông Ðào Duy Từ) để chống quân chúa Trịnh ở miền Bắc,
nhưng ông cũng là người rất sành về ca nhạc, thi thơ, ông là con của một nữ
đào hát nổi tiếng ở kinh thành Thăng long, học giỏi, tài cao nhưng không được
đi thi vì là con của đào hát thuộc tầng lớp "xướng ca vô loại", do vậy, ông đã
bỏ vào Nam thi thố tài năng sở học của mình và được chúa Nguyễn trọng dụng.
Ông Ðào DuyTừ đã đặt các tuồng hát bội và tổ chức những đoàn hát. Với các vở
tuồng rất hay đến ngày nay vẫn còn lưu truyền: San Hậu, Sơn Hà Xã Tắc, nội dung đều mang ý nghĩa phục thù, rửa
hận: Nịnh thần soán đoạt ngôi vua, trung thần phò ấu chúa trốn chạy ra miền
biên cương tìm căn cứ gầy dựng lại binh lực, chiêu hiền đãi sĩ để diệt chế độ
do nịnh thần thống trị, cũng giống như trường hợp Nguyễn Hoàng vào Nam muốn
diệt Trịnh phò Lê. Việc tổ chức hát tuồng, hát bội trở thành lợi khí chính trị
vận động đồng bào miền Nam gia nhập quân đội chống lại miền Bắc, vừa giải trí
giúp vui cho quân sĩ lúc xa nhà.
Ta sẽ thấy tài nghệ văn chương của ông Ðào Duy
Từ ở đoạn văn hát Nam Ai sau đây của nhân vật Ðổng Kim Lân trong lúc trở về
Sơn Hậu:
(Tán): Xếp ngọn ngũ lui khỏi Tạ Thành
(Chi nữa) Lên Cật Ký trông chừng San Hậu
Nam: San Hậu phản phản lối cũ
Ðoái Tạ thành (còn đọc là thiềng) lụy đổ dường mưa
Ngọn cờ, tiếng trống bơ thờ
(Mẹ, mẹ ơi, con biết liệu làm sao đây!)
Thảo thân, ngay chúa sững sờ hai vai
(Hò, họ)
Bước đường mai, phong ai chi sá
San Hậu thành đoái đã gần đây.
Tâm sự của một người tướng tài như
Ðổng Kim Lân, bị Tạ Ôn Ðình bắt mẹ treo trên đầu thành, bảo Kim Lân phải đầu
hàng, nỗi lòng buồn như thất trận của một vị tướng: "Ngọn cờ, tiếng trống bơ
thờ" thật là não nề thê thiết. Nều đầu hàng địch là bất trung mà không đầu là
bất hiếu: "Thảo thân, ngay chúa, sững sờ hai vai". Chữ "sững sờ" thật là đắc
địa không còn chữ nào thế được!
Hiện nay tại Bình định, họ Trần và họ
Ðào còn dòng dõi rải rác ở các huyện Phù cát, An nhơn, Tuy phước.
Và giữa triều Nguyễn, Bình định lại
sản sinh được một kịch tác gia về tuồng hát bội là cụ Ðào Tấn ở làng Vinh
thạnh xã Phước lộc, huyện Tuy phước. Ông sinh năm 1845, đậu cử nhân khoa Ðinh
Mão (1867) tại trường thi Bình định. Năm 1871 được gọi ra Huế làm Hiệu thư.
Thời kỳ "bốn tháng ba vua" ông bỏ về nhà tu ở chùa Linh Phong (chùa Ông Núi).
Tu được ba năm thì được gọi ra làm quan, sau thăng dần làm Tổng đốc Quảng nam,
Tổng đốc Nghệ an, sau cùng là Thượng thư bộ Công, thụ Hàm Vinh Quang Tử, một
trong tứ trụ đại thần, Cơ mật viện, Ðông các điện Ðại học sĩ. Ông cũng là một
nhà nghệ sĩ tài hoa, rất sành về kỹ thuật hát bội, đam mê nó đến nỗi khi làm
Tổng đốc Nghệ an, đem theo người bạn trong làng, một nghệ sĩ hát bội, là ông
đội Hiệp, thành lập một đoàn hát vừa là lính hầu, lính lệ, vừa là nghệ sĩ của
đoàn hát, các người đó cũng có phẩm trật như ông Bát Phàn người làng Phú
phong, sau này về hưu, lập đoàn hát bội tại Phú phong rất nổi tiếng. Ông Bát
Phàn (bát phẩm) là thầy ông Cửu Vỵ ở Bình nghi, ông Bầu Ba ở Nhơn hoà. Vì vậy
ở Bình định mãi về sau này từ năm 1920 đến năm 1945 nổi lên nhiều gánh hát bội
rất hay, có nhiều người được phong làm Chánh ca ở tỉnh và ở huyện như: Chánh
ca Ðông, chánh ca Ghình, chánh ca Ðựng...
Các tuồng do cụ Ðào Tấn sáng tác gồm
có: Tân Dã Ðồn (tác phẩm đầu tay viết năm 1867), Hậu Sanh Ðàn, Trầm Hương Các,
Cổ Thành, Ngũ Hổ Bình Tây (sửa lại khúc sau do cụ Tú Nguyễn Diên là thầy cụ
Ðào sáng tác). Muốn sửa bổn tuồng Ngũ Hổ này, cụ Ðào Tấn phải đem lễ vật đến
cúng trước bàn thờ của thầy và xin phép sửa đoạn từ công chúa Thoại Ba đưa
Ðịch Thanh lên đường.
Nội dung của mỗi bổn tuồng đều hàm
chưa những tâm sự, ý hướng gởi gắm của tác giả. Ông có ý hướng đả phá bọn nịnh
thần Việt gian thời đó là Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, theo Pháp để vinh thân
phì gia, làm chuyện gian ác giết hại nòi giống, đồng bào không có chút lương
tri. Tuồng Hộ Sanh (đỡ đẻ), nhân vật Tiết Cương là tượng trưng cho phong trào
kháng Pháp như: Phan Ðình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Mai Xuân Thưởng, Trương Công
Ðịnh. Nhân vật Tiết Nghĩa như những tên: Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải... Tuồng
Trầm Hương Các (nói về Hoàng Phi Hổ đầu Châu), có ý đả phá một triều đình thối
nát không còn ra thể thống quyền lực gì cả... Về mặt văn chương, những tác
phẩm của cụ Ðào Tấn phải nói là trác tuyệt, mỗi câu hát Khách là những câu đối
nên thơ, những câu sắp nam là những bài thơ ngắn, những lời nói lối cũng là
những câu thơ nói lên nhiều tâm sự, ngọn bút sắc sảo tài tình, do vậy các vị
nho sĩ, cử, tú trước kia đều ưa thích, tán thưởng. Nghệ thuật tuồng lại càng
điêu luyện hơn, cách xây dựng lớp và nhân vật. Chỉ cần 5, 7 nhân vật cũng đủ
làm nên một tuồng, chỉ cần 5, 7 lớp cũng đủ diễn tả một câu chuyện, ví dụ như
tuồng Tân Dã Ðồn, Cổ Thành, Hộ Sanh...
Cụ Ðào Tấn mất năm 1907 (Thành Thái
năm thứ 19) để lại sự nuối tiếc cho giới khoa cử bạn bè của cụ lúc đó.
Bộ môn hát bội đến nay đã mai
một rất nhiều vì nhiều lý do. Lối hành văn trong các tuồng hát bội
thường theo thể biền ngẫu, mỗi câu mỗi chữ phải đối nhau, dùng nhiều từ Hán
Việt và điển tích nên rất khó hiểu, nhất là những câu hát Khách toàn là chữ
Nho nên không phổ biến được, lớp trẻ bây giờ lại ít hiểu, không hiểu thì không
thể nào cảm mộ ưa thích được. Ví dụ như những câu hát Khách trong tuồng Hộ
Sanh Ðàn, đoạn Võ Tam Tư đề binh đi tìm bắt Tiết Cương:
Thiết mã thiên quần phi tộ tuyết
Hùng binh vạn đội bó như tinh
Lôi đình Giang Hán quân thinh chấn
Tiết thị hưu tư vọng thoát sanh
Tạm dịch:
Ngựa sắt ngàn bầy chạy như tuyết bay
Binh hùng mạnh vạn đội bày bố đông như sao
Bên bờ sông Hán thủy tiếng quân reo vang dội như sấm
Họ Tiết chớ khá nuôi ý đào tẩu.
Hay những câu nói lối của Tiết Cương:
Kinh địa từ tế tảo song linh
Triều binh phút công vi vạn đội.
Tạm dịch:
Từ khi đến đất Kinh đô tế mồ mả cha mẹ
Nay bị binh của triều đình bầy bao vây trùng điệp.
Những câu Xướng, Bạch cũng thế toàn là chữ Nho
và điển tích, như Lan Anh nhớ Tiết Cương:
Khéo lôi thôi dương liễu mạch đầu
Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng
Mỗi câu là một bài thơ Ðường, thất ngôn tứ
tuyệt:
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tướng mạch phong hầu
***Khéo lôi thôi dương liễu mạch đầu
và bài:
Ðả khởi hoàng oanh nhi
Mạc giao chi thượng đề
Ðề thời kinh thiếp mộng
Bất đắc đáo Liêu Tề
*** Càng thánh thót hoàng oanh chi thượng.
Nhiều và còn nhiều lắm những trường
hợp như vậy, do đó người bình dân chỉ cảm theo giọng hát và bộ tịch chứ khó
thấu đáo được lời tuồng, nên sự đam mê thích thú cũng giảm đi rất nhiều. Lối
hát ứ ư, ứ ự đã không còn thích hợp với giới trẻ nữa.
Hát bội là môn nghệ thuật phát triển mạnh nhất vào thời Nguyễn và ở những năm của thập kỷ 70 Hát bội vẫn có một vị trí khá quan trọng trong văn hóa thưởng thức nghệ thuật của Việt nam. Có câu ca dao nói
rõ sự đam mê của người dân về môn hát bội:
Hát bội hành tội người ta
Ðàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con
Ưa thích mê xem hát bội đến nỗi đàn
ông mới cưới vợ nghe có đám hát cũng để vợ ở nhà một mình, đàn bà có con nhỏ
không ở nhà ru con ngủ. Mỗi lần ở làng xã có chuyện cúng tế đình miếu thần
hoàng đều phải mời đoàn hát bội đến hát lễ cúng thần linh, thường chọn bổn
tuồng có nhân vật Quan Công tức ông Quan Vũ - Quan Vân Trường trong truyện Tam
Quốc, vì quan niệm cho rằng ông đã hiển thánh sau khi tử trận, gương trung
liệt nghĩa khí của ông đã sáng ngời với ba đức tính: "Bần tiện bất năng di,
Phú quí bất năng dâm, Uy vũ bất năng khuất", mặc dù Tào Tháo trăm phương ngàn
kế dụ dỗ, uy hiếp. Vì vậy các tuồng thường được trình diễn như: "Cổ Thành":
Quan công phò nhị tẩu quá ngũ quan trảm lục tướng (qua 5 ải chém 6 tướng) đoàn
tụ với Trương Phi ở Cổ thành; "Hoa Dung Ðạo": Quan Công tha Tào Tháo ở Hoa
dung; hoặc "Tam Anh Chiến Lữ Bố" (Lưu, Quan, Trương đánh nhau với Lữ Bố), hoặc
"Quan Công phó hội với Châu Du". Lấy hát bội để tế lễ thần linh như một món lễ
vật quí giá dâng cầu thần cho mưa thuận gió hoà, dân cư lạc nghiệp, may mắn
thịnh vượng, người ta gọi là hát "thứ lễ". Sau đó các chức sắc trong làng
thường chọn các tuồng hát có tính cách tiểu thuyết, tình cảm như: Ngũ Hổ Bình
Tây, Hộ Sanh, Tiết Giao đoạt ngọc, Mạnh Lệ Quân v.v...
Ở chùa chiền cũng có tổ chức hát bội,
nhất là vào dịp rằm tháng bảy lễ Vu lan, trong dân gian thường có câu: "Trong
chay ngoài bội" trong chùa làm lễ cúng chẩn, bên ngoài hát bội, thường hát các
tuồng có điển tích liên quan đến đạo Phật.
Mỗi lần có đám hát bội là mỗi lần
trai gái trong làng có dịp gặp gỡ để tâm sự, trò chuyện, tán tỉnh, có cơ hội
để trao đổi tình cảm. Do vậy mà dân chúng già trẻ đều ưa thích hát bội. Người
nào hiểu được kỹ thuật, điệu nghệ, các thể loại của hát bội đều đam mê về
tiếng kèn, nhịp trống, điệu đàn cò (còn gọi là đàn nhị), bởi nó diễn tả tình
cảm: vui, giận, buồn, sợ, thương, ghét, ưa muốn (hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục)
của mỗi nhân vật trong truyện tuồng mỗi vẻ khác nhau, theo tình tiết khác
nhau, rất tế nhị. Lúc hùng tráng thì hát theo thể: Bạch, xướng, tẩu mã, giao
ban, nói lối; lúc vui vẻ, sung sướng thì hát theo điệu: Nam xuân, nói lối, hát
bài nhịp một, nhịp ba; lúc đau buồn thì hát theo điệu: Khách, nói lối. Mỗi thể
loại điệu kèn, đờn, nhịp trống ăn khớp với giọng hát, câu ca, dễ làm cho người
xem phải cảm động say mê. Mỗi lần có đám hát nghe tiếng trống kèn thúc giục,
nhất là tiếng trống chầu đổ liên hồi làm náo nức rộn rã lòng người mà không đi
được, chỉ tiếc là đến nay nó không còn thích hợp với tầng lớp trẻ nữa. Nhạc thị trường, phim ảnh, công nghệ giải trí đã thay thế làm môn giải trí thịnh hành hiện đại, nó dễ hiểu và
dễ làm người ta tiếp cận, nên lần hồi môn hát bội bị thất truyền mai một.
Hát bội giờ đã như một hình bóng cổ xưa, quê mùa đối với thanh thiếu niên Việt
nam ngày nay. Theo trào lưu của thế giới, thanh thiếu niên hiện nay không còn cảm được nghệ thuật hát Bội. Ðiệu hát quá khác xa với các dòng ca
nhạc hiện đại du nhập từ nước ngoài. Lối hát Nam xuân, Nam ai, Xuân nữ, Khách,
Tẩu mã, Bạch, Xướng theo điệu kèn, trống, đờn cổ xưa đã trở nên lạc
lõng trong xã hội hiện đại. Ít người thưởng thức, những đêm hát không bán vé được bao nhiêu, nghệ sĩ ăn lương nhà nước, nhưng cũng
không đủ cho nhu cầu cuộc sống, nên nghệ sỹ hát bội không còn mặn mà với nghề. Thậm chí nhiều nghệ sĩ không đủ sống
đã phải bỏ đi làm các nghề khác.