Hành động của các nhân vật trên sân khấu nói chung, trước hết phải để cho khán giả thấy được, nghe được. Người diễn viên Tuồng sử dụng múa, hát là hai phương tiện chính để lột tả tâm trạng, tính cách của nhân vật.
Múa Tuồng được hình thành từ những động tác sinh hoạt và hành động tấm lý trong cuộc sống xã hội của con người. Các thế hệ diễn viên đã chắt lọc những động tác sinh hoạt, lao động hàng ngày; tiếp thu những tinh hoa của những hình thái múa dân gian, múa tín ngưỡng, tôn giáo trong tế lễ, hội hè; múa cung đình và võ thuật dân tộc để xây dựng hệ thống động tác từ đơn giản đến phức tạp. Múa Tuồng có những nguyên tắc nghiêm ngặt: nội ngoại tương quan, tả hữu tương ứng, thượng hạ tương phù. Nghĩa là hành động bên trong, hành động bên ngoài phải tương ứng; phải trái phải cân đối; trên, dưới, phải phù hợp trong hoàn cảnh quy định. Múa Tuồng có chức năng minh hoạ, chức năng bài cảnh. Trong một vài hoàn cảnh nào đó, múa tuồng có khả năng độc lập; nó có thể thay thế cho lời nói, điệu hát để diễn đạt tâm trạng, tính cách của nhân vật như các lớp diễn: “Liêm Cương tắm ngựa”, “ Châu Xương cấy râu”…
Múa Tuồng với nói lối và hát Tuồng gắn bó hết sức hữu cơ, đều phải tuân thủ nguyên tắc khoa trương cách điệu. Từ những giai điệu trong tế lễ, trong hát xướng dân gian được hình thành nói lối, bài bản, làn điệu Tuồng. Nói lối Tuồng dựa theo văn biền ngẫu từ bốn đến tám chữ. Đầu câu và giữa câu thường đệm vào nói hường, nói kẻ theo thể văn xuôi cho rõ nghĩa câu hát hoặc để vỉa vào câu hát. Bài bản là hát theo nhịp phách. Làn điệu là hát có nhạc đệm riêng biệt. Bài bản, làn điệu được hát theo nhiều thể thơ khác nhau lục bát, tứ tuyệt, thất ngôn, ngũ ngôn…nói lối, bài bản, làm điệu, là một kiểu “đài từ” riêng của nghệ thuật sân khấu Tuồng nó được diễn đạt theo tâm trạng, tính cách của từng nhân vật.
Sân khấu Tuồng thực chất là một sân khấu gợi cảm, gợi tưởng tượng. Từ đó các nghệ sĩ Tuồng đã sử dụng phương pháp nghệ thuật cách điệu, ước lệ, tượng trưng.
Phương pháp cách điệu hoá được dùng một cách nhất quán và toàn diện trong biểu diễn. Người diễn viên không tuân thủ hình thức bên ngoài, mà đi xa cái dạng tự nhiên, biến thành tượng trưng, mang ý nghĩa biều tượng, ý nghĩa của một tín hiệu, cái roi ngựa tượng trưng cho con ngựa, cái mái chèo tượng trung cho con thuyền…Nói một cách khác, người diễn viên Tuồng truyền thống trong khi miêu tả vật thể, không dừng lại ở vỏ của vật thể mà đi vào sự sống của vật thể là cái thần của sự vật. “Cái thần” chính là đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu Tuồng truyền thống.
Trên sân khấu Tuồng tất bắt đầu là người diễn viên. Cùng với người diễn viên cảnh tượng sân khấu mới hiện dần lên, địa điểm và thời gian kịch mới được xác định. Với một câu hát, một điệu múa, người diễn viên dựng nên cả một trời tưởng tượng, lúc là triều đình, khi là rừng núi, lúc là vườn thượng uyển, thoắt đã thành bãi chiến trường.
Như vậy, nhiệm vụ của người diễn viên Tuồng còn kiêm cả việc bài cảnh. Nhưng để dựng được cảnh sắc trong trí tưởng tượng của người xem, người diễn viên Tuồng phải dùng những động tác tượng trưng với giả định có cảnh thật trước mắt. Đây là những động tác điêu luyện, được cách điệu cao và giầu sức biểu hiện. Nhờ những động tác tượng trưng này, người diễn viên Tuồng vượt ra ngoài khuôn khổ diện tích chật hẹp của sân khấu, tạo nên toàn bộ cuộc sống trên sân khấu.
Rõ ràng người diễn viên Tồng là chủ nhân thực sự trên sân khấu. Nghệ thuật biểu diễn của người diễn viên giữ địa vị chính trên sân khấu Tuồng. Bằngcác phương tiện nói lối hát, múa và nhạc đệm, nghệ thuật biểu diễn của diễn viên Tuồng làm sáng tỏ ý nghĩa của câu chuyện, tạo ra sự khoái cảm về thẩm mỹ của trí tuệ.